Translate

Hiển thị các bài đăng có nhãn congcu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn congcu. Hiển thị tất cả bài đăng

19 tháng 10, 2011

GIẢI MÃ CÁCH LÀM GIÀU

GIẢI MÃ CÁCH LÀM GIÀU CỦA CÁC TỶ PHÚ




Tại sao một vài người có các tấm đệm lò xo để nhào lộn trong nhà và máy bay riêng trong khi những người khác lại phải ngủ vạ vật ở các trạm xe buýt? Câu hỏi tại sao Bill Gates lại giàu rất khó trả lời chính xác, chỉ biết rằng thế giới này sẽ là một cuộc chơi hấp dẫn khi bạn có trong tay 50 tỷ đôla.
alt 

 Bill Gates đang sửa sang lại ngôi nhà của mình. Năm 1997, nhân vật có thế lực này đã chuyển đến ngôi biệt thự trị giá 100 triệu đôla và hiện nó cần sửa lại đôi chút.
Ngôi nhà có diện tích hơn 3.000 m2 này có một rạp chiếu phim 20 chỗ ngồi, một sảnh tiếp khách, bãi đỗ xe 28 chỗ, một tấm đệm lớn để nhào lộn trong nhà và tất cả những đồ dùng điện tử hiện đại nhất. Nhưng, gia đình Bill Gates vẫn chưa hoàn toàn hài lòng với ngôi nhà này. Theo các tài liệu nộp cho Ủy ban quy hoạch của khu vực Medina, Washington, Bill Gates và vợ muốn có thêm phòng ngủ và những khu vui chơi, học tập cho các con.

Người ta có thể suy ra rất nhiều điều từ kế hoạch xây dựng của Gates nhưng kết luận quan trọng nhất là, sẽ thật sung sướng nếu trở thành Bill Gates. Thế giới này sẽ là một cuộc chơi hấp dẫn khi bạn có trong tay 50 tỷ đôla. Người ta cũng có thể nghĩ đến một số vấn đề khác, rộng hơn: Tại sao một vài người có các tấm đệm lò xo để nhào lộn trong nhà và máy bay riêng trong khi những người khác lại phải ngủ vạ vật ở các trạm xe buýt? Tại sao trong thời kỳ phát triển kinh tế kéo dài nhất lịch sử nước Mỹ, vẫn có rất nhiều người không có đủ nhu yếu phẩm cho cuộc sống?

Chín năm tăng trưởng kinh tế liên tục chỉ làm tăng thêm tỷ lệ đói nghèo. Khoảng 11% người Mỹ sống trong tình trạng đói nghèo. Đây là một con số đáng tưởng thưởng so với mức đỉnh điểm 15% của năm 1993 nhưng lại không khá hơn là bao so với những năm 1970. Tất nhiên, Mỹ vẫn là nước giàu trong khu vực nếu xét trong bối cảnh một nửa dân số thế giới (tức, khoảng 3 tỷ người) phải sống dưới mức nghèo khổ.

Đói nghèo và bất bình đẳng về thu nhập cũng là một đề tài được rất nhiều nhà kinh tế học quan tâm. Họ tìm lời giải cho những câu hỏi: Có những ai nghèo? Tại sao họ lại nghèo? Và mọi người có thể làm gì để giải quyết tình trạng đó? Bất kỳ cuộc tranh luận nào về nguyên nhân Bill Gates giàu hơn những người phải sống thiếu thốn trong những khu ổ chuột đều bắt đầu bằng khái niệm mà các nhà kinh tế học gọi là vốn con người.

Vốn con người là toàn bộ các kỹ năng của một cá nhân đó là học vấn, sự thông minh, uy tín, tính sáng tạo, kinh nghiệm làm việc, khí lực doanh nhân, và thậm chí cả khả năng ném một quá bóng rổ thật nhanh, mạnh và chính xác. Nó là tất cả những gì còn lại nếu có ai đó tước đi tất cả tài sản của bạn – công việc, tiền bạc, nhà ở, các tài sản khác – và để bạn lại trên một góc phố chỉ với một bộ quần áo trên người. Bill Gates sẽ sống thế nào trong tình hình đó? Rất tốt. Thậm chí nếu Microsoft có phá sản và tài sản của Gates bị tịch thu thì ông vẫn có thể tìm được cho mình một công việc tốt ở các công ty khác. (Khi bị Apple – công ty do chính mình sáng lập nên – sa thải, Steven Jobs đã chuyển hướng và sáng lập ra Pixar và ngay sau đó, Apple đã mời ông quay trở lại).

Thị trường lao động không khác nhiều so với các thị trường khác: trong thị trường đó, có những kỹ năng được chuộng hơn những kỹ năng khác. Nếu một người càng sở hữu nhiều kỹ năng riêng, độc đáo, người đó càng được trọng dụng. Alex Rodriguez kiếm được 250 triệu đôla trong 10 năm chơi bóng chày cho Texas Rangers bởi vì anh ta có thể đánh một quả bóng tròn rất mạnh (có vận tốc khoảng 90 dặm một giờ) với tần xuất khá thường xuyên. Sức hút từ cú đánh bóng của Rod giúp Rangers thu được lợi nhuận khổng từ việc bán vé, đồ lưu niệm cho các fan hâm mộ và quảng cáo trên truyền hình. Và trên hành tinh này, có lẽ, duy nhất Rod là người có khả năng đánh một cú bóng mạnh với phong độ ổn định như thế.

Tương tự như trong nền kinh tế thị trường, giá của một kỹ năng không có mối quan hệ cố hữu với giá trị xã hội của nó, mà chỉ liên quan đến sự khan hiếm. Trong cuộc phỏng vấn Robert Solow – người giành giải Nobel Kinh tế năm 1987 và là một người rất say mê bóng rổ – tôi đã hỏi Solow, ông có thấy buồn không khi số tiền thưởng của giải Nobel ít hơn cả số tiền mà Roger Clemens, vận động viên của Red Sox vào thời điểm đó, kiếm được trong một mùa giải. Solow đã trả lời: “Tôi không buồn, bởi vì chuyên gia kinh tế giỏi thì có nhiều nhưng cầu thủ bóng rổ giỏi như Roger chỉ có một”. Đây chính là lối tư duy của các nhà kinh tế học.

Ai là người giàu có, hoặc ít nhất là có cuộc sống thoải mái ở Mỹ? Các kỹ sư lập trình, bác sĩ phẫu thuật, kỹ sư nguyên tử, nhà văn, kế toán, chủ ngân hàng, giáo viên… Các cá nhân này thường là những người có tài năng thiên bẩm: họ tích lũy được rất nhiều kỹ năng chuyên biệt khi tham gia các khóa đào tạo và giáo dục chuyên môn. Nói cách khác, họ đã đầu tư đáng kể vào vốn con người. Giống như bất kỳ loại hình đầu tư nào khác – từ xây dựng một nhà máy sản xuất đến mua trái phiếu – tiền được đầu tư hôm nay cho vốn con người sẽ mang về lợi nhuận trong tương lai. Đó sẽ là một khoản lợi nhuận rất lớn. Theo tính toán, nếu bạn đầu tư ngay hôm nay cho việc học đại học, bạn có thể kiếm lại số tiền đó cộng thêm 10% một năm cho số tiền bạn đã bỏ ra.

Điều ngược lại đúng với những người lao động nghèo. Những người lao động có các kỹ năng làm việc tối thiểu không hiếm. Các cửa hàng ăn nhanh chỉ cần trả mức lương vừa phải là có thể thuê được những người phục vụ thân thiện. Đó có thể là 5,50 đôla một giờ khi nền kinh tế đang suy thoái hoặc 9 đôla một giờ khi thị trường lao động đặc biệt khan hiếm, nhưng sẽ không bao giờ lên tới 400 đôla một giờ – một mức phí mà chỉ những luật sư hàng đầu mới có thể yêu cầu.

Những luật sư xuất sắc rất hiếm, nhưng những người bán đồ ăn giỏi thì không. Nguyên nhân chính xác nhất dẫn đến tình trạng đói nghèo dù ở bất kỳ nơi đâu trên thế giới là tình trạng thiếu vốn con người. Ở Mỹ, có một bộ phận người dân nghèo là bởi vì họ không thể tìm được việc làm. Nhưng đây là một triệu chứng, chứ không phải là một căn bệnh. Vấn đề cơ bản là do họ thiếu các kỹ năng (hay, vốn con người). Tỷ lệ nghèo ở những học sinh bỏ học ngay từ cấp phổ thông ở đất nước chúng ta cao gấp 12 lần tỷ lệ nghèo ở những sinh viên tốt nghiệp đại học. Tại sao Ấn Độ lại là một trong những quốc gia nghèo nhất thế giới? Lý do chủ yếu là bởi vì 35% dân số nước này mù chữ (đã giảm so với mức gần 50% cách đây một thập kỷ) hoặc phải sống trong những điều kiện khiến họ không phát huy được vốn con người.

Một nền kinh tế mạnh cũng có vai trò hết sức quan trọng. Tìm được một công việc vào năm 2001 dễ hơn vào năm 1975 hay 1932. Nước lên sẽ kéo thuyền lên. Tăng trưởng kinh tế là điều tuyệt vời đối với tất cả những người nghèo. Ngược lại, một nền kinh tế yếu kém sẽ là nỗi kinh hoàng đối với họ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải thừa nhận một thực tế: Ngay cả khi nước lên, những lao động có tay nghề thấp cũng chỉ có thể bám lấy những khúc củi trôi giạt, trong khi những người cùng độ tuổi có tay nghề hơn lại ngồi thư thái uống cocktail trên thuyền. Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh không biến những người trông xe thành những vị giáo sư đại học. Nhưng đầu tư vào vốn con người có thể làm được điều đó. Các nhân tố vĩ mô kiểm soát những đợt thuỷ triều nhưng vốn con người mới quyết định chất lượng của con thuyền.

Dù kinh tế phát triển nhanh hay chậm, vị trí của người giàu và người nghèo vẫn không thể cân bằng.

Hãy coi suy nghĩ này như một sự thử nghiệm. Hãy tưởng tượng, vào một buổi sáng thứ hai nào đấy, 100 nghìn thanh thiếu niên lông bông, không học hành bị bỏ bẵng ở góc phố State và Madison ở Chicago. Đây sẽ là một thảm hoạ đối với xã hội. Tội phạm gia tăng và khối dịch vụ của Chính phủ sẽ phải gồng mình để giải quyết vấn đề. Các doanh nghiệp sẽ không muốn xúc tiến các hoạt động trong khu thương mại Chicago. Các chính trị gia sẽ nài xin sự giúp đỡ từ chính quyền bang hoặc liên bang: Rót ngân sách để chúng tôi hỗ trợ những thanh thiếu niên này hoặc giúp chúng tôi loại bỏ họ. Khi quyết định đàn áp thẳng tay người vô gia cư, các chủ doanh nghiệp ở Sacramento, California đã thực hiện kế hoạch đưa họ lên những chuyến xe buýt một chiều ra khỏi thành phố.

Bây giờ hãy tưởng tượng cũng ở góc phố trên nhưng những thanh niên lêu lổng kia được thay bằng 100 nghìn sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học hàng đầu nước Mỹ. Những chiếc xe buýt đến góc phố State và Madison và chở trên đó những luật sư, bác sĩ, nghệ sĩ, nhà di truyền học, kỹ sư phần mềm và nhiều nhân tài có các kỹ năng chuyên biệt khác. Trong số họ, sẽ có nhiều người tìm được việc ngay lập tức. (Hãy nhớ rằng, vốn con người không chỉ là kiến thức chuyên môn, mà còn bao gồm tính kiên trì, trung thực và sáng tạo – những đức tính tốt góp phần đáng kể giúp họ kiếm được việc làm). Một số có thể lập công ty riêng (năng khiếu kinh doanh chắc chắn cũng là một phần quan trọng trong vốn con người). Một số sẽ chuyển đến nơi khác (những lao động có tay nghề cao luôn năng động hơn những người có tay nghề thấp). Để tận dụng nguồn nhân lực dồi dào và quý giá, các doanh nghiệp cũng chuyển tới Chicago hoặc mở văn phòng và nhà máy ở đây. Trong trường hợp này, giống như làn sóng nhập cư đã giúp nước Mỹ phát triển, sự xuất hiện với mật độ dày đặc của những chuyến xe buýt là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Chicago.

Nếu bạn cho rằng ví dụ này có vẻ hơi giả tạo và gượng gạo, chúng ta hãy cùng xem ví dụ về Naval Air Warfare Center (NAWC) (Trung tâm Không chiến của Hải quân Mỹ) ở Indianapolis – một cơ sở sản xuất thiết bị điện tử hiện đại cho hải quân cho đến cuối những năm 1990. NAWC buộc phải đóng cửa trong đợt cắt giảm quy mô quân đội. Tất cả chúng ta đã quen với những câu chuyện đóng cửa nhà máy kiểu này. Hàng trăm hoặc hàng nghìn lao động mất việc làm, các công ty quanh vùng rơi vào tình trạng khủng hoảng vì sức mua giảm mạnh.

Một bài báo sẽ viết: “Khi nhà máy XYZ bị đóng cửa năm…, cả thành phố bắt đầu chết.” Nhưng NAWC là một câu chuyện hoàn toàn khác. Một trong những tài sản có giá trị nhất của trung tâm này là lực lượng lao động, khoảng 40% trong số đó là các nhà khoa học hay kỹ sư. Các nhà lãnh đạo thông minh của địa phương do Thị trưởng Stephen Goldsmith đứng đầu quyết định chào bán nhà máy này. Bảy công ty đã nộp hồ sơ thầu và Hughes Electronics là công ty thắng thầu.

Một ngày thứ Sáu của tháng 1/1997, các nhân viên NAWC về nhà với tư cách là nhân viên chính phủ, nhưng ngày thứ Hai tiếp theo, 98% trong số họ làm việc với tư cách là nhân viên của Hughes (Cái tên NAWC cũng được đổi thành HAWC). Các giám đốc của Hughes cho biết giá trị của vụ mua bán này nằm ở con người chứ không phải gạch đá và vữa hồ. Hughes đã mua được một lượng vốn con người khổng lồ mà nó rất khó tìm được ở bất kỳ nơi nào khác. Điều đó đối lập hoàn toàn với việc đóng cửa nhà máy trong bài hát của Bruce Springsteen (Bài hát nói về một nhà máy mà những người lao động có trình độ hạn chế nhận ra rằng các kỹ năng hạn hẹp của họ không có giá trị khi xưởng/hầm mỏ/nhà máy bị đóng cửa). Sự khác biệt chính là ở vốn con người.

Đến đây, chúng ta đã có đủ bằng chứng để từ bỏ một trong những quan niệm nguy hại nhất trong chính sách công: Đó là toàn bộ lý luận sai lầm về lao động. Sẽ là sai lầm khi tin rằng có một số lượng việc làm cố định được tạo ra trong nền kinh tế và do đó sẽ có một công việc mới được tạo ra để thay thế cho một công việc khác bị mất đi. Những con số dưới đây chứng minh cho quan điểm này.

Nền kinh tế Mỹ đã tạo ra hàng chục triệu việc làm mới trong những năm 1990, những việc làm mới này chủ yếu thuộc lĩnh vực Internet. Tuy nhiên, nếu so sánh với các con số trước đó, tỷ lệ lao động có việc làm vẫn chưa cao. Tương tự, trong thời gian này, lịch sử nước Mỹ cũng tiếp nhận làn sóng khổng lồ những người nhập cư đến sinh sống và làm việc nhưng tỷ lệ lao động có việc làm trong dài hạn vẫn không tăng. Có sự thay thế nào trong ngắn hạn không? Có. Một vài công nhân mất việc làm hoặc bị giảm lương khi phải cạnh tranh với những người mới tham gia vào lực lượng lao động. Nhưng số việc mới được tạo ra nhiều hơn số việc làm bị mất đi. Hãy nhớ rằng, các lao động mới phải tiêu dùng thu nhập của mình, dẫn đến sự xuất hiện của nhu cầu mới đối với những sản phẩm khác. Do vậy, chiếc bánh kinh tế ngày càng to hơn, chứ không bị chia nhỏ.

Có một mối liên hệ đáng chú ý giữa mức vốn con người của một quốc gia với sự phát triển của nền kinh tế, nhưng không có một mối liên hệ đáng chú ý giữa nguồn tài nguyên thiên nhiên và mức sống. Những nước như Nhật và Thụy Điển là những nước giàu có vào bậc nhất thế giới, nhưng nguồn tài nguyên thiên nhiên của cả hai nước này đều rất nghèo nàn. Những nước như Nigeria lại hoàn toàn ngược lại: Sự giàu có về dầu mỏ chỉ góp phần rất nhỏ vào việc nâng cao mức sống của người dân. Trong một số trường hợp như ở châu Phi, sự giàu có về khoáng sản còn là nguyên nhân dẫn đến những cuộc chiến tranh đẫm máu mà đáng lẽ ra đã chấm dứt hẳn nếu không có những nguồn tài nguyên đó.

Mỹ là một quốc gia giàu có bởi vì người Mỹ làm việc rất năng suất. Ngày nay, chúng ta giàu hơn so với bất cứ thời điểm nào trong lịch sử loài người, bởi vì chúng ta có khả năng sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ tốt hơn nhiều lần trước kia, gồm cả những dịch vụ như chăm sóc sức khoẻ và giải trí. Điểm mấu chốt là chúng ta làm việc ít hơn và sản xuất ra nhiều hơn. Năm 1870, để làm ra đủ lượng thực phẩm cần dùng cho một năm, một hộ gia đình điển hình cần 1.800 giờ lao động, nhưng giờ đây, họ chỉ mất khoảng 26 giờ.

Trong thế kỷ XX, năm làm việc trung bình giảm từ 3.100 giờ xuống còn khoảng 1.730 giờ, trong khi đó, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân trên đầu người thực tế đã tăng từ 4.800 đôla lên 31.500 đôla. Ngay cả những người nghèo cũng đang sống rất tốt so với chuẩn lịch sử. Ranh giới nghèo hiện nay đang dừng ở mức thu nhập thực tế của 10% người có thu nhập cao nhất cách đây một thế kỷ. Đúng như John Maynard Keynes từng lưu ý: “Về lâu dài, năng suất lao động sẽ quyết định mọi thứ”.

Nhiều nhà kinh tế học cho rằng, chúng ta không nên quan tâm đến khoảng cách giàu nghèo cho đến khi chất lượng cuộc sống của mọi người trở nên tốt hơn. Nói cách khác, chúng ta nên quan tâm đến phần bánh mà người nghèo nhận được là bao nhiêu, chứ không phải là phần bánh họ nhận được bằng bao nhiêu so với của Bill Gates.

Robert Frank, nhà kinh tế học của trường Đại học Cornell, đồng thời là tác giả của cuốn Luxury Fever, đã đưa ra một ví dụ rất thuyết phục khẳng định sự giàu có tương đối – kích thước chiếc bánh của tôi so với của người hàng xóm – là yếu tố quyết định quan trọng lợi ích của chúng ta. Những người tham gia cuộc khảo sát của ông có hai sự lựa chọn: (A) bạn kiếm được 110 nghìn đôla và những người khác kiếm được 200 nghìn đôla; hoặc (B) bạn kiếm được 100 nghìn đôla và những người khác kiếm được 85 nghìn đôla. Frank giải thích: “Những con số thu nhập chính là sức mua thực tế.

Thu nhập của bạn trong lựa chọn A sẽ đủ điều kiện mua một ngôi nhà lớn hơn 10% so với ngôi nhà bạn có thể mua trong lựa chọn B. Nếu chọn chọn B, bạn sẽ phải từ bỏ một số tiền nhỏ trong toàn bộ thu nhập để đổi lấy mức tăng lớn trong thu nhập tương đối.” Bạn sẽ giàu có hơn trong lựa chọn A và ít giàu hơn trong lựa chọn B nhưng lại giàu hơn những người khác. Lựa chọn nào sẽ khiến bạn vui vẻ hơn? Theo Frank, phần lớn người Mỹ đều chọn B. Nói cách khác, thu nhập tương đối có ý nghĩa rất quan trọng. Sự ghen tị có thể là một phần cho cách giải thích này. Frank đã chỉ ra rằng, trong những môi trường xã hội phức tạp, chúng ta luôn tìm kiếm các thước đo đánh giá hoạt động của mình và sự giàu có tương đối là một trong những thước đo đó.

Những gia đình sống ở các khu nhà ổ chuột tại phía nam của Chicago không nghèo bởi vì Bill Gates sống trong một ngôi nhà lớn. Họ nghèo bất chấp thực tế đó. Vì một loạt những lý do phức tạp, người nghèo ở Mỹ không được chia sẻ những khoản lợi mà DOS và Windows tạo ra. Bill Gates không lấy chiếc bánh của họ, ông ta không cản bước con đường thành công của họ hay được lợi từ sự thiếu may mắn của họ. Thay vào đó, tầm nhìn và tài năng của Gates đã tạo ra một khối lượng của cải khổng lồ. Có sự khác biệt rất lớn giữa một thế giới mà ở đó Bill Gates giàu lên bằng cách đánh cắp những thành quả của người khác với một thế giới mà ở đó ông giàu lên nhờ việc tự tăng nguồn cung cấp thực phẩm khổng lồ cho riêng mình. Thế giới sau là sự biểu hiện tốt hơn cho thấy một nền kinh tế hiện đại hoạt động như thế nào.


(Trích cuốn sách “Đôla hay lá nho” do Alpha Books phát hành)

THỦ LĨNH GIAO TIẾP HIỆU QUẢ

Bạn hãy nghe tôi ! Có nhiều cách để giao tiếp hiệu quả hơn ngoài khả năng thể hiện bản thân bằng lời nói. Bạn phải sẵn sàng và có khả năng lắng nghe người khác! Học cách lắng nghe là đã thắng hơn một nửa trận chiến.
Thủ lĩnh giao tiếp hiệu quả
Lắng nghe là cách bạn tìm hiểu những gì đang xảy ra và làm thế nào nó ảnh hưởng đến người khác. Thông thường, khi có vấn đề trong một tổ chức, đó là vì các nhà lãnh đạo đã không lắng nghe những gì đang xảy ra cho đến khi quá trễ và rơi vào tình thế đã rồi. Có hai việc bạn có thể làm để phát triển kỹ năng nghe:
  1. Thực hành cách đặt câu hỏi hiệu quả.
Hãy suy nghĩ về câu hỏi mà bạn cần phải đặt ra và chuẩn bị câu hỏi hay. Bạn cần nghe những câu trả lời từ những người khác, do đó, không nên có bất cứ khái niệm nhận định nào trước về họ,.
 2. Tìm kiếm thông tin phản hồi. 
Cho và nhận được phản hồi là một tình huống win-win, đôi bên cùng có lợi. Lấy ý kiến phản hồi từ tất cả các thành viên của đội nhóm, hoặc tổ chức, và lắng nghe với một tâm thế cởi mở. Bạn cần phải giữ cho được sự cởi mở ấy để đánh giá hiệu quả các câu trả lời bạn nhận được. Điều này cũng sẽ giúp xây dựng lòng tin giữa các thành viên trong tổ chức.
Là một thủ lĩnh, bạn thậm chí sẽ có lúc, và hết lần này đến lần khác, có thể cung cấp những tin xấu cho các thành viên tổ chức của bạn.  Đây là khi các kỹ năng lắng nghe của bạn trở nên quan trọng và cần thiết nhất. Bạn phải thật sắc sảo hết mức có thể trong quá trình lắng nghe phản hồi từ các thành viên trong một tình huống xấu để có thể xác định mức độ của những tác động này đối với  từng người nói riêng và và  cả tổ chức nói chung. Có một chuỗi các cảm xúc mà tất cả mọi người đều trải qua khi họ nghe tin xấu. Bắt đầu với cảm giác bị sốc, tiếp đến là giận dữ, chuyển sang từ chối, và cuối cùng là chấp nhận. Sau khi bạn nói với họ về các tin tức, bạn phải trở thành một người nghe xuất sắc hàng đầu. Bạn phải đặt ra những câu hỏi đúng và yêu cầu thông tin phản hồi để bạn biết mọi người đang cảm thấy như thế nào. Một khi bạn làm điều này, bạn có thể giúp họ vượt qua các giai đoạn để chấp nhận tình hình. Mỗi người thủ lĩnh nào rồi cũng phải đối mặt với một số hình thức của cuộc xung đột tại một thời điểm lúc này hay lúc khác.
Là thủ lĩnh, bạn sẽ là người mà cả nhóm hướng đến để khi cần giải quyết vấn đề. Xung đột nên được giải quyết nhanh chóng để không kéo dài ảnh hưởng đến người đứng đầu của tổ chức hoặc người có liên quan. Những vấn đề dây dưa hệ lụy, có thể gây giảm năng suất, đưa ra các quyết định kém thiện chí và phá hủy các mối quan hệ. Xung đột không thể bỏ qua, chỉ  có thể hy vọng rằng nó sẽ chóng qua đi mà thôi. Nếu bạn không cảm thấy thoải mái xử lý giải quyết xung đột hay đương đầu với xung đột, bạn không phải là một thủ lĩnh. Đơn giản là thế!
Sức mạnh của bạn khi là một thủ lĩnh sẽ được đo bằng nhận thức của bạn về cuộc xung đột và khả năng của bạn để giải quyết nó. Nếu bạn không, hoặc không thể thực hiện các chức năng này, bạn sẽ mất đi sự tôn trọng của đội nhóm và mọi người sẽ bắt đầu rời khỏi tổ chức hay làm gián đoạn tiến trình phát triển.
Giao tiếp là chìa khóa để giải quyết xung đột.
Có một vài bước bạn có thể thực hiện trong những tình huống như thế này.
Đầu tiên là thu thập thông tin. Lắng nghe quan điểm của tất cả các bên. Lấy ý kiến của người bên ngoài nếu bạn cảm thấy là cần thiết. Các quan điểm rất có thể sẽ hoàn toàn khác nhau. Bạn cần phải biết những cảm xúc đi cùng với các sự kiện từ tất cả các bên để giải quyết cuộc xung đột thành công. Bạn phải đặt ra những câu hỏi khó và lắng nghe câu trả lời để xác định đường dẫn chính xác cho việc thực hiện giải pháp. Làm rõ các vấn đề. Xác định lại những điểm đã được thực hiện và yêu cầu người đính chính cho bạn nếu bạn hiểu lầm những gì họ đã nói hoặc cảm thấy. Xác định  ranh giới chung.
Di chuyển đến lãnh thổ trung lập. Điều này rất quan trọng để không có chuyện một bên có lợi thế, trong khi bên kia bất lợi. Cho dù điều này là nhận thức hoặc thực tế, nó cũng sẽ đóng một vai trò trong việc giải quyết cuộc xung đột và có thể gây thù oán đối với bạn từ một bên này hay bên khác. Nếu một người cảm thấy bị coi thường, hoặc rằng bạn đặt họ vào tình thế bất công, bạn đã mất đi sự tôn trọng của họ.
Sử dụng quyền lực của bạn với tư cách là thủ lĩnh để xác định các cuộc thảo luận sẽ diễn ra ở đâu và vào lúc nào, bạn sẽ tiến hành ra sao . Hãy nhớ rằng, bạn đang gánh vác trọng trách, họ đến với bạn để được giúp đỡ! Nếu bạn cần phải kéo mọi người ngồi lại nói chuyện với nhau, sắp xếp một cái bàn tròn là tỏ thiện chí nhất. Tạo một kế hoạch hành động. Hãy là một người hòa giải nếu có thể và để cho các nhóm tự tìm ra các kế hoạch giải quyết. Nếu như tổ chức này quá lớn hoặc hoàn toàn không thống nhất, bạn sẽ cần phải bước vào và đưa ra giải pháp, chỉ định người nào sẽ thực hiện những hành động gì. Hãy chắc chắn đã thiết lập một thời hạn deadline cho các hành động và phân công trách nhiệm cho họ hoàn thành. Trao đổi về những việc bạn đã phân công, và đảm bảo chúng được hoàn toàn rõ ràng đối với mọi người tham gia và kiểm tra kỹ nhằm đảm bảo họ đã hiểu ý của bạn một cách chính xác.
Nếu xung đột không thể giải quyết được (rất hiếm nhưng cũng có xảy ra) bạn sẽ cần phải tự thực hiện các quyết định nào tốt nhất cho cả tổ chức và cho sứ mệnh nói chung.  Công bố cho toàn tổ chức rằng bạn đã có quyết định và thực hiện những động thái mà bạn cảm thấy là tốt nhất cho tất cả mọi người và giải thích lý do tại sao bạn cảm thấy như vậy.
Xung đột thực sự tốt cho sức mạnh của tổ chức. Nó có thể có thể phơi bày sự khác biệt về ý kiến để tạo ra cơ hội trao đổi ý kiến để giúp thúc đẩy bạn và toàn tổ chức tiến về phía trước. Điều quan trọng là không để cho những thất vọng hạn chế ấy làm ảnh hưởng xấu đến năng suất hoặc làm cho có người bỏ cuộc. Bạn phải hành động nhanh chóng và thậm chí là kiên quyết trong những tình huống này. Mục tiêu của bạn là khiến cho sự giao tiếp giữa các thành viên trong nhóm trở nên chính chắn, hợp tác và vững bền hơn. Đây là loại giao tiếp cho phép lời nói, tư tưởng và thông điệp sẽ được chuyển giao với một sự cân bằng cảm xúc và sức mạnh trí tuệ. Là một thủ lĩnh, bạn phải hiểu rằng mọi người sẽ trả lời xuất phát từ cảm xúc trước tiên và logic không đóng vai trò gì ở đó. Cho họ thời gian để chuyển đổi từ cảm xúc sang đầu óc để họ có thể giải thích được các vấn đề bằng lý trí, chứ không phải là tình cảm.
Đừng phán xét, và cho phép mọi người thể hiện mình. Độ nhạy cảm của bạn rất quan trọng và bạn không thể bỏ qua những cảm xúc liên quan. Vì vậy, hãy là một minh chứng tuyệt vời. Hành động của bạn sẽ có ý nghĩa mạnh hơn lời nói của bạn! Bạn sẽ không có được sự tôn trọng từ đội nhóm của bạn nếu "lời nói không đi đôi với hành động" Và hãy học cách lắng nghe!

TẬN DỤNG TỐI ĐA LỰC ĐÒN BẨY.


Một mình bạn không thể tạo nên lực đòn bẩy. Bạn phải dựa vào kiến thức, kinh nghiệm và tiền bạc của mình cũng như những nguồn lực của bạn. Đây là con đường dài và chậm để đi đến sự giàu có. Cuối cùng, những nguồn lực của bạn cạn kiệt. Bạn trở nên nản chí và bỏ cuộc.
Hình thức lực đòn bẩy đầu tiên của bạn là kiếm cho được một người cố vấn dày dạn kinh nghiệm. Nhà cố vấn của bạn đã chinh phục được ngọn núi này trước bạn. Ông ta biết rõ về địa hình, những thách thức và chỗ hiểm nguy. Ông ta biết phải làm gì, và quan trọng hơn, nhà cố vấn của bạn biết những gì KHÔNG nên làm. Đây là con đường tắt đầu tiên – tránh mất thời gian và tiền bạc trong việc cố gắng sửa chữa những lỗi lầm mà các “tân binh” hay mắc phải. Nhà cố vấn của bạn cũng biết những con đường tắt, biết tiết kiệm thời gian và biết những mẹo nhỏ. Bạn cần có một nhà cố vấn.
Hình thức lực đòn bẩy thứ hai là kiếm một nhóm. Cùng nhau tất cả các bạn sẽ gặt hái được nhiều hơn, nhanh hơn và dễ dàng hơn. Bạn có thể phát hiện ra những thiếu sót của nhau. Bạn có thể khuyến khích những thành viên nản chí trong nhóm và ngược lại, họ có thể khuyến khích bạn khi bạn thất vọng. Họ lấp chỗ trống trong bộ kỹ năng của bạn. Họ có thể mạnh ở những điểm bạn còn yếu. Là một nhóm tất cả mọi người “Chạy” nhanh hơn. Một nhóm 4 người tiếp sức cho nhau có thể chạy một dặm đường nhanh hơn một người chạy khoảng 2 giây. Thế nên, nếu bạn muốn tốc độ, bạn cần một nhóm.
   Hình thức lực đòn bẩy thứ ba là một mạng lưới. Mỗi thành viên của nhóm biết ít nhất 100 mối liên lạc có giá trị. Vì thế một nhóm 6 người sẽ biết được 600 người. Nếu mỗi người trong những người này biết 100 mối liên lạc có giá trị thì bạn có cách tiếp cận với 60.000 liên lạc có giá trị. Nhưng những con số này đang lừa phỉnh. Người ta tính toán rằng giá trị của một mạng lưới là bình phương của số người trong nó. Nếu mạng lưới trực tiếp của bạn bao gồm 600 người, mức đạt đến cuối cùng của bạn là 600 x 600, tức là 360.000 liên lạc có giá trị. Rõ ràng, một người thì không đủ. Bạn cần sức mạnh của một mạng lưới. Trong mạng lưới đó, có nhiều liên lạc quan trọng – những người kiểm soát các mạng lưới người khổng lồ. Một liên lạc quan trọng có sức mạnh “biến điều không thể thành cố thể”. Giá trị của một mạng lưới lớn là khả năng tìm ra mối liên lạc quan trọng. Nhớ rằng, tất cả chỉ cần MỘT liên lạc quan trọng.

Hình thức thứ tư của lực đòn bẩy là mạng lưới vô tận. Có một sự kết nối tinh thần liên kết tất cả chúng ta. Đây là vương quốc của sự tự tin, may mắn, cơ hội, số phận. Liên kết vào mạng lưới vô tận này là hình thức cuối cùng của lực đòn bẩy.
    Hình thức thứ năm của lực đòn bẩy là sự sử dụng những công cụ và kỹ năng. Những nhà triệu phú sử dụng các công cụ của sự giàu có – máy tính, Iternet, thư điện tử - để liên lạc, tính toán và quyết định nhanh chóng. Nếu bạn muốn một kết quả mau lẹ, bạn cần có thông tin tức thời.

    Hình thức thứ sáu của lực đòn bẩy là các phương pháp. Mỗi nhà triệu phú đã hệ thống hóa, sắp xếp hợp lý, và tổ chức những quy trình của sự giàu có. Hình thức truyền thông tin hiệu quả nhất là học phương pháp của nhà cố vấn của bạn và theo đuổi nó – dù bạn đã chọn bất động sản, thị trường chứng khoán, kinh doanh hoặc Internet. Hãy học lấy phương pháp đó.

    Khi sức mạnh kết hợp giữa những nhà cố vấn, đội nhóm, các mạng lưới, mạng lưới vô tận, các công cụ, và các phương thức được áp dụng cho một đòn cân dài và mạnh mẽ, điều kỳ diệu có thể xảy ra trong phút chốc.

18 tháng 10, 2011

KDTM XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN TRÊN THẾ GIỚI.



KINH DOANH THEO MẠNG
Xu hướng phát triển trên thế giới
 
      
Năm 1990 tại Mỹ, lần đầu tiên, Network Marketing được nhắc đến trên báo chí một cách thiện cảm chưa từng có. Tạp chí “Business” – một tạp chí kinh doanh hàng đầu của Mỹ đăng bài viết về ngành kinh doanh theo mạng với tựa đề: “Network Marketing – phương pháp tiếp cận người tiêu dùng hữu hiệu nhất thập kỷ 90” của tác giả Rechard Poe, lúc đó là tổng biên tập của tòa báo. Năm 1992, cũng lại tác giả này có một bài viết nữa về Network Marketing mang tên: “Chúng tôi tạo ra những triệu phú”
   Theo số liệu của Directing Selling Association doanh thu của Network Marketing trên toàn thế giới năm 2000 đạt hơn 80 tỷ đô la Mỹ. Riêng ở Mỹ, doanh số của ngành này năm 2000 là 20 tỷ đô la với gần 8 triệu người tham gia.
500 Công ty lớn nhất thế giới do Tạp chí Fortune công bố như IBM hay MCI hiện nay đều đang phân phối sản phẩm và dịch vụ qua các Công ty Network Marketing bên ngoài. IBM hiện đang bán các chương trình đào tạo qua Internet qua Công ty Big Planet, một chi nhánh của tập đoàn NuSkin International. Ngay như CitiGroup, Công ty lớn nhất thế giới về các dịch vụ tài chính và bảo hiểm nhân thọ cũng đang phân phối qua Công ty Network Marketing mang tên Primerica. Công ty có lợi nhuận tăng nhanh nhất trong những năm gần đây, đang niêm yết tại American Stock Exchange cũng là một Công ty Network Marketing có tên là Pre-Paid Legal Services.
Theo dự toán của các chuyên gia phân tích kinh tế, trong thế kỷ 21 sẽ có 70% hàng hóa trên thế giới được bán qua hệ thống Network Marketing.
Network Marketing đã thực sự bùng nổ trên toàn cầu và thu hút hơn 50 triệu người tham gia các mạng lưới này. Khoảng 500 ngàn người trên toàn thế giới đã trở thành triệu phú nhờ hệ thống Network Marketing. Theo số liệu của tạp chí “Success”, cứ mỗi tuần ngành công nghệ này lại sản sinh ra 2 nhà triệu phú mới. Mỗi tháng trên toàn thế giới lại có hơn 100 ngàn người mới gia nhập Network Marketing. Theo thống kê thì cứ trong 100 người là triệu phú USD thì có tới 30 người làm ra 1 triệu đô đầu tiên từ kinh doanh theo mạng.
 
CÁC SỐ LIỆU TIÊU BIỂU
- Ở Mỹ khoảng 15% dân số, tức là cứ 9 người dân Mỹ thì có 1 người tham gia phân phối trong các công ty Network Marketing.
- Riêng ở Nhật có hơn 2 triệu nhà phân phối với tổng doanh thu đạt 30 tỷ USD mỗi năm.
- Đài Loan, cứ 12 người dân lại có 1 người tham gia hệ thống Network Marketing. Tổng doanh thu của Network MarketingĐài Loan va Triều Tiên đạt gần 2 tỷ USD mỗi năm.
- Malaysia, hơn 1 triệu người tham gia Network Marketing đã đưa doanh thu của năm 1998 lên đến con số 1 tỷ USD.
- Tại Úc, doanh thu của kinh doanh theo mạng đạt hơn 1,5 tỷ USD mỗi năm. Để được tham gia một buổi hội thảo về Network Marketing, những người dân Úc phải bỏ ra 5 – 7 giờ đồng hồ đi đường – điều này cho thấy sức hút kỳ lạ của loại hình kinh doanh này.
- Doanh số bán hàng của Network Marketing tại Đức,Ý và Pháp đạt hơn 2 tỷ USD mỗi năm, riêng ở Anh, con số này là 1 tỷ USD. Ở các nước Đông Âu, Network Marketing cũng đang phát triển mạnh. Tại Tây Ban Nha, các công ty Network Marketing đã đạt được doanh thu hơn 700 triệu USD mỗi năm, ở Áo con số này là 300 triệu USD, ở Thụy Sĩ là 200 triệu USD, doanh thu ở các nước Thụy Điển, Na Uy và Phần Lan cũng đạt tới con số hàng trăm triệu đô la.
- Tại Brazin, có tới gần 1 triệu nhà phân phối với doanh thu tổng cộng hơn 3 tỷ USD mỗi năm. Ở Achentina, con số này lên tới 1 tỷ USD.
- Doanh số ở Nam Triều Tiên cũng đạt 400 triệu USD. Các nhà phân phối đã ứng dụng những công nghệ kinh doanh tiên tiến nhất như hệ thống viễn thông và các quy trình tự động hóa vào việc bán sản phẩm.
- Kinh doanh theo mạng đã có mặt tại Việt Nam từ năm 2000 như một sự hội nhập tất yếu của tiến trình toàn cầu hóa trong thế kỷ 21. Ở nước ta hiện nay đã có khoảng 50 công ty hoạt động trên lĩnh vực Network Marketing với số người tham gia lên đến hàng trăm ngàn người. Quốc hội Việt Nam cũng đã thông qua hành lang pháp lý về luật kinh doanh theo mạng.
- Ngày 24/08/2005, nghị định 110/CP về quản lý hoạt động bán hàng trong Network Marketing ra đời là một bước ngoặt lịch sử khẳng định làn sóng hội nhập kinh tế đã bắt đầu.


****************************************** 
PHỤ NỮ VÀ KDTM 
6 Xu hướng ảnh hưởng

Không có gì bí mật về việc phụ nữ chiếm đa số của ngành KDTM và bán hàng trực tiếp ( khoảng 82% theo số liệu của Hiệp hội Bán trực tiếp) .Nhưng việc này có sức ảnh hưởng lớn đến thế nào thì không có gì rõ ràng vì nam giới vẫn luôn là đối tượng chiếm vị trí nổi bật hơn cả.  
Vì vậy, làm thế nào để phụ nữ có ảnh hưởng đến ngành KDTM? Dưới đây là một số trong những xu hướng chính mà tôi đã nhận thấy trong vài năm qua cho thấy  rõ sự ảnh hưởng đầy quyền lực khi phụ nữ nắm giữ con số trên 30,47 tỷ USD của ngành KDTM."


30What_Is_Network_Marketing_Network_Marketing_Success_multi_level_marketing_Usana_MLM_Woman_1_


Xu hướng #1:  Sự bùng nổ của sản phẩm và dịch vụ mới
Sự bùng nổ số lượng lớn các công ty KDTM mới là phản ánh xu hướng tất yếu của xã hội chúng ta, nhưng nó cũng được thúc đẩy bởi một thực tế là phụ nữ đưa ra hầu hết quyết định mua sắm trong gia đình của họ. Và họ thích lựa chọn - và rất nhiều lựa chọn. Họ muốn sản phẩm và dịch vụ phù hợp với lợi ích và lối sống có nhịp độ nhanh. Và sự xuất hiện của rất nhiều sản phẩm và dịch vụ mới trong ngành KDTM là lời phản hồi trực tiếp đến những gì những phụ nữ này muốn mua.
 Kết quả là, ngày càng nhiều công ty giờ đã nhìn thấy doanh số bán hàng từ KDTM như một cách khả thi để cung cấp sản phẩm và dịch vụ của họ, nhanh chóng khiến cho ngày càng có nhiều công ty bán lẻ bắt đầu sử dụng bán hàng KDTM để tiếp cận thị trường mới. Là lợi ích bổ sung, có nhiều người phụ nữ hơn, và đặc biệt là phụ nữ trẻ đã bị cuốn hút vào ngành KDTM mang lại tốc độ tăng trưởng và cơ hội mới cho ngành.
Xu hướng # 2 - Tập trung vào khách hàng, không tuyển dụng
Sự thành công của ngành KDTM phụ thuộc vào doanh số bán hàng – sức mua tương ứng của người tiêu dùng. Trong quá khứ, nhiều nhà KDTM thành công đào tạo tuyến dưới của mình chỉ tập trung chủ yếu vào việc tuyển dụng và bỏ qua doanh thu bán lẻ, vốn đã tạo ra rất nhiều lời chỉ trích tiêu cực đối với KDTM. Nhưng phụ nữ thường từ chối làm việc này, thay vào đó lựa chọn để tập trung vào khách hàng của họ và phát triển doanh số bán lẻ như là nền tảng của kinh doanh. Phụ nữ đã thấy rằng việc tuyển dụng từ bên trong nguồn khách hàng của họ  thì ổn định và tích cực hơn rất nhiều so với cách cũ là tuyển dụng tất cả mọi người và chờ đợi để xem ai đồng ý tham gia.
Xu hướng #3 – Mạng xã hội là HOT!
Mạng xã hội giờ đây đã là cơn đại hồng thuỷ và các công ty mạng đang trở lại thời hoàng kim nhờ có chúng. Tại sao? Bởi vì phụ nữ thích giao tiếp xã hội và xây dựng mối quan hệ, chứ không chỉ bán hàng. Các công ty mạng đang hưởng một sự phục hưng mới nhờ có điều này và đang thay đổi cho kịp thời đại bằng cách đưa ra chi phí tham gia khởi nghiệp dễ dàng, lựa chọn kinh doanh chi phí thấp cho phụ nữ. Các khái niệm được các công ty đưa ra rất hấp dẫn cho phụ nữ trẻ hơn (đặc biệt là bà mẹ độc thân), người cần có thu nhập bán thời gian, nhưng muốn có một lựa chọn linh hoạt và ít hạn chế hơn một công việc văn phòng toàn thời gian từ 8giờ sáng đến-5giờ chiều.
Các công ty KDTM cũng tạo cho phụ nữ sự tiện lợi từ việc mua các sản phẩm chất lượng trong một môi trường nhiều niềm vui, thư giãn - đó là tất cả những gì mà mạng xã hội có được.Và ưu điểm lớn nhất là, sơ đồ trả thưởng của các công ty mạng ngay lập tức tạo ra thu nhập cho phụ nữ (món hời) -! Mà không cần chờ đợi phải kiểm thư để xem mức hoa hồng bao nhiêu.
Xu hướng # 4 - Thu nhập doanh nghiệp bán thời gian
Nhiều phụ nữ chỉ muốn có một doanh nghiệp bán thời gian với thu nhập bán thời gian, họ không muốn xây dựng một doanh nghiệp triệu đô la và khoảng thời gian dài để tạo ra loại thu nhập.Và ngành KDTM đang chuyển động theo hướng ưu tiên cho những phụ nữ làm việc bán thời gian này sẽ chiếm đa số. Kết quả là, nhiều công ty (nếu như thông minh) đang đưa ra kế hoạch trả thưởng tốt hơn không chỉ cho những người làm việc toàn thời gian siêu sao mà còn cả những người làm bán thời gian. Ngoài ra nhiều công ty đang cung cấp cho tất đại diện bán hàng các cơ hội để có được quyền lợi chăm sóc y tế, một ưu thế bán hàng lớn cho nhiều phụ nữ không có bảo hiểm ở nơi khác.
Xu hướng # 5 - Chỉ cần sự thật
Phụ nữ thích nghiên cứu trước khi họ mua cái gì đó. Họ muốn nhận được các chi tiết, sự kiện, và ý kiến về một sản phẩm hay dịch vụ trước khi quyết định. Nhu cầu này đã giúp điều hướng sự phong phú của các nguồn thông tin có sẵn trực tuyến về ngành KDTM và các dịch vụ và sản phẩm. Bây giờ chúng ta có tạp chí, video, blog, podcast, teleconferences, hội nghị web, các website, công cụ tìm kiếm, báo chí và các phương tiện truyền thông cung cấp thông tin về các công ty KDTM với một tốc độ nhanh chưa từng thấy. Có sẵn tất cả các thông tin này cũng đã giúp mở rộng sự thu hút của KDTM, trước khi ta nghiên cứu đến xu hướng sau cùng.
Xu hướng # 6 – KDTM xuôi theo dòng chảy
 KDTM cuối cùng đã bắt được sự quan tâm tích cực của các phương tiện truyền thông và phụ nữ có rất nhiều thứ để làm. Từ những chương trình talk show buổi sáng cho đến các tờ báo địa phương, các phương tiện truyền thông tập trung hướng đến các dạng  phụ nữ trong KDTM- bà mẹ nội trợ, những phụ nữ bắt đầu công việc KDTM, các phụ nữ khởi nghiệp sau khi nghỉ hưu, vv Ví dụ, chương trình Early Show CBS gần đây đã thực hiện một cuộc phỏng vấn với bà mẹ kiếm tiền ở nhà và chỉ những bà mẹ trong các công ty bán hàng trực tiếp như Pampered Chef và Creative Memories. Sự công khai tích cực như vậy từ các phương tiện truyền thông là một bước nhảy vọt lớn cho KDTM và phụ nữ đang dẫn đường.
Tôi nghĩ rằng điều rõ ràng từ những xu hướng này là phụ nữ đã có một ảnh hưởng tích cực rất lớn về hình ảnh cũng như chất của KDTM và họ sẽ tiếp tục làm thế trong tương lai.